Lịch sử ra đời và kỹ thuật vẽ tranh Sơn Mài
“Danh từ sơn mài (laque) là một danh từ mới đặt sau này để chỉ một kỹ thuật trước kia gọi là Sơn Ta nhưng đã biến hoá hẳn do nghệ thuật mài sơn. Kỹ thuật Sơn Ta cũng tương tự như sơn Tàu, có từ đờinhà Hán. Sử dụng cùng với Sơn Ta một nguyên liệu là sơn sống. Chất sơn sống này, ở nước ta, miền Phú Thọ sản xuất rất nhiều và vẫn bán sang Tàu cùng Nhật. Từ năm 1931 trở về trước, công dụng Sơn Ta cũng như Sơn Tàu ở Tàu và Sơn Nhật ở Nhật là phủ lên đồ vật làm nó tôn vẻ lộng lẫy, lên những vật dùng thường như cái khay, cái tráp, đôi guốc, đồ thờ như hương án dài, bát đĩa, đồ trang trí như câu đối, hoành phi, bình phong… màu sắc đại để có: son, đen,nâu, cánh gián, vàng, bạc theo cổ truyền. Nói rõ ra, Sơn Ta chỉ có công dụng trang trí, địa vị là ở trong trang trí. Mặc dầu ở Nhật, nghệ thuật sơn có tế nhị hơn cả, nhưng chưa một nước nào nghĩ đến tìm tòi, sử dụng nguyên liệu sơn một cách khác cổ truyền, phiêu lưu trong nghệ thuật sơn tìm một con đường nào tăng phẩm giá mỹ thuật sơn bằng cách phát minh thêm khả năng của nó. Từ 1931 trở đi, nhờ sự tìm tòi thiết tha của một số họa sĩ có tài bỏ sơn dầu để chuyển hẳn về sơn mài, Sơn Ta đã vượt được ra ngoài nơi cầm hãm, ngang nhiên trên đường bao la của hội họa, cứ phương trời xa lạ mà tiến. Từ cái tráp, chiếc guốc, nó vượt lên bức họa lồng khung quý giá, từ một phương tiện phụ thuộc làm tôn vẽ đồ vật, nó trở nên một phương tiện độc đáo diễn đạt nổi tâm hồn người nghệ sĩ, một phương tiện lấn át cả sơn dầu. Quên dĩ vãng Sơn Ta đổi tên nhũn nhặn là Sơn Mài (Tô Ngọc Vân).
LỊCH SỬ TRANH SƠN MÀI:
Thực chất, giai đoạn mới mở trường (1925-1930) chính là giai đoạn đầu tiên đánh dấu quá trình khám phá chất liệu sơn dầu châu Âu như một điểm tham chiếu cho sự phát triển các loại hình, chất liệu Á Đông.Riêng về hội họa sơn mài, trên bình diện lịch sử, Claude Mahoudot cũng đã có những lời nhận định khá chính xác:
“Trường Mỹ thuật Hà Nội bắt đầu hoạt động từ năm 1926. Khoá đầu tốt nghiệp năm 1931. Mười lăm năm trong cuộc sống nghệ thuật của một nước có ý nghĩa gì? Tuy nhiên, công việc làm được rất lớn. Một giáo sư, Inguimberty, đã thực sự tạo ra được một phong trào hội họa, và đã đưa cái gọi là “sơn ta” (laque) vào phục vụ các họa sĩ. Chất sơn sau này hình như sẽ có một vị trí rất lớn trong lịch sử tương lai của nghệ thuật Đông Dương”.
Năm 1934, xuất phát từ những đòi hỏi của thực tế nghiên cứu và thực nghiệm về “sơn ta” ngày càng trở nên nghiêm túc và có triển vọng, Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương đã “chính thức” mở xưởng kỹ thuật nghiên cứu “sơn ta”, đặt cơ sở cho sự hoàn thiện về mặt kỹ thuật và cho sự phát triển của tranh sơn mài. Bốn năm sau, 1938, trường đã được tổ chức lại (theo nghị định ký ngày 24/5/1938 của Toàn quyền Đông Dương) và lấy tên là Trường Cao đẳng Mỹ thuật và Nghệ thuật thực hành Đông Dương. Theo đó, nhà trường có hai ban chính: ban hội họa, điêu khắc và sơn mài (section de peinture, sculpture et laque) và ban kiến trúc, đều thuộc ngành giáo dục đại học (l’enseignement supérieur).
Ba ban phụ thuộc về nghệ thuật thực hành: ban trần thiết (bậc 2), ban kim hoàn và chạm trổ (bậc1, nghề thủ công), ban gốm (bậc1) và cuối cùng là một lớp bổ túc (cours complémentaire) về hội họa.
Nếu bức tranh sơn mài “Bờ ao” (bình phong, sáu tấm, mỗi tấm 110x25cm) của Trần Quang Trân, sáng tác vào năm 1932, có thể được xem như bằng chứng đầu tiên khẳng định đẳng cấp “hội họa” đích thực của thể loại sơn mài – thì lịch sử biên niên của hội họa sơn mài trước và sau thời điểm ra đời của tác phẩm ấy quả là những bước đi dồn dập.
Sơn mài – tuy xuất hiện có muộn hơn đôi chút so với tranh lụa và tranh khắc gỗ (là những chất liệu hội họa đã có nền tảng ở Á Đông, tất nhiên) – nhưng có thể nói giấc mộng về một chất liệu hoàn toàn có tính dân tộc Việt Nam thì đã được các nghệ sĩ Việt Nam ấp ủ ngay từ ban đầu.
Trong sách “Các họa sĩ Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương”, họa sĩ Quang Phòng đã viết:
“…Sự kiện đặc biệt quan trọng ở thời kỳ đầu xây dựng nền hội họa hiện đại Việt Nam là sự xuất hiện tranh sơn mài. Từ kỹ thuật “sơn ta” cổ truyền đến kỹ thuật “sơn mài hiện đại” là cả một bước ngoặt lớn – đánh dấu kỷ nguyên về một chất liệu mới mang tính đặc thù dân tộc có khả năng áp dụng vào hội họa.”
Đồng quan điểm với học giả người Pháp Claude Mahoudot, họa sĩ Quang Phòng khẳng định:
“Người quan tâm đến vấn đề này (tức vấn đề chuyển hoá “sơn ta” vào hội họa – sớm nhất là họa sĩ Joseph Inguimberty (1896 – 1971), bắt đầu ngay từ khi ông mới sang nhậm chức giảng viên môn trang trí Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, năm 1925.”
Và dưới đây là một câu chuyện đã được họa sĩ Quang Phòng viết lại trong cuốn sách (đã dẫn), theo lời kể trực tiếp của họa sĩ Nguyễn Nam Sơn (1890 – 1973):
“…Nguyên một buổi được họa sĩ Nam Sơn hướng dẫn đi vẽ tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám, Joseph Inguimberty đã thực sự sửng sốt, bàng hoàng trước các hoành phi, câu đối, đồ thờ sơn son thếp vàng lâu đời, lên nước thời gian, ngả sang các gam màu vô cùng phong phú và kỳ lạ, ở nhà đại bái. Ông đã đề xuất ngay ý kiến với hiệu trưởng Victor Tardieu để đưa sơn ta vào chương trình nghiên cứu và thực tập… Từ đó trở về sau, chất liệu sơn mài luôn luôn và bao giờ cũng là niềm kỳ vọng về sự sáng tạo một ngôn ngữ nghệ thuật riêng cho dân tộc của nhiều nghệ sĩ tài năng lớp trước…”
Sách “Lê Phổ”, với lời tựa nhan đề “Người họa sĩ tuyệt diệu” của Waldemar George, xuất bản tại Paris, 1970, trong phần niên biểu cho biết:
“1930. Ông tốt nghiệp Trường Mỹ thuật Đông Dương, nhận những bản hợp đồng đầu tiên: những bình phong lớn bằng sơn ta và tranh trang trí cho Dinh Toàn quyền.
1931. Ông được Toàn quyền Đông Dương chỉ định làm phụ tá cho ông Victor Tardieu, Giám đốc nghệ thuật Toà Angkor tại triển lãm thuộc địa Paris. Thành viên ban giám khảo ngành mỹ nghệ do Jean Dunand – một chuyên gia về đồ sơn phương Đông, người đã trang trí cho con tàu thủy chở khách Normandie bằng những tấm sơn nổi danh – làm chủ tịch…”
Với bức hoành sáu tấm “Phong cảnh Bắc Kỳ”, sáng tác vào khoảng 1929-1930 (sử dụng then, son, vàng và bạc ), in trong tập “Ba trường mỹ thuật Đông Dương”, nhân dịp Đấu xảo Paris 1931, có thể nói, Lê Phổ (1907-2002) là một trong số ít họa sĩ Việt Nam đầu tiên đặt chân trên con đường mới của chất liệu sơn ngàn năm cổ truyền của dân tộc.
Tuy nhiên, theo họa sĩ Hoàng Tích Chù, trong tập giáo trình về sơn mài: “…kết quả những bước đầu ấy vẫn chưa thoát được những hình thức trang trí cổ điển vì kỹ thuật chưa phát triển được, nên còn tình trạng đóng khung trong những phương pháp cũ trong việc làm sơn cũng như pha chế chất liệu và màu sắc.
Trong những thời kỳ ấy, mỗi màu sơn được sử dụng riêng cho những họa tiết, như núi thì màu đen, nhà cửa màu nâu, cây cối màu đỏ, trời thì thếp vàng… hòa sắc… chỉ vẻn vẹn có mấy màu đơn giản…
Từ màu nọ đến màu kia màu nào cũng đều sơn một nền màu nguyên vẹn, và mỗi màu sơn đều có cách biệt về mặt sơn cao thấp, nghĩa là trước khi bôi những màu sơn, trong lúc làm vóc phải can (in) bản họa tiết xuống và phải khắc những mảng màu cao thấp khác nhau của từng họa tiết…
“một số sinh viên tiếp tục nghiên cứu thực nghiệm đã phát triển thêm một bước nữa cho chất liệu sơn mài bằng cách áp dụng phương pháp gắn vỏ trứng rồi mài nhẵn trên những hình vẽ…
Nhưng vẫn phải còn chờ đợi một nghiên cứu tìm tòi mới nữa mới có thể đưa nền nghệ thuật sơn mài đến một trình độ nghệ thuật có khả năng diễn tả tình cảm, biểu hiện được hiện thực” .
Đến năm 1935, tại triển lãm SADEAI (la Société annamite d’Encouragement à l’Art et à l’Industrie/ Hội An Nam khuyến khích Mỹ thuật và Kỹ nghệ) lần thứ nhất, tổ chức ở Hà Nội, mùa xuân, có khoảng 200 bức sơn dầu, lụa, khắc gỗ, mực tàu trên giấy bản, nhưng chỉ có một bức bình phong “sơn” duy nhất của Lê Phổ, kỹ thuật và bút pháp vẫn hoàn toàn theo lối cũ.
Từ 1937, họa sĩ Lê Phổ sang Pháp định cư, và kể từ đó ông không còn có cơ hội để tiến xa hơn nữa trên con đường chinh phục chất liệu sơn mài – một công việc rất phù hợp với khả năng sáng tạo nghệ thuật toàn diện của ông.
Năm 1927, nghệ nhân Đinh Văn Thành (tức Phó Thành hay còn gọi là Thiềng, sinh năm 1898 – mất 1977) đã được mời vào làm việc tại xưởng nghiên cứu “sơn ta” (sơ khai) của Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, bên cạnh Joseph Inguimberty – giáo sư phụ trách chuyên ngành trang trí.“… Bác Thành kể lại cho tôi nghe cái việc tìm ra cách làm sơn mài – họa sĩ Lê Quốc Lộc đã ghi trong bài “Gặp gỡ nghệ nhân sơn mài cao tuổi Đinh Văn Thành” – Từ năm 1932, lớp sinh viên mỹ thuật thường sử dụng sơn ta để vẽ bài trang trí. Các thứ sơn cánh gián, sơn cánh gián pha son, lúc đó đều có pha dầu trẩu, gọi là sơn quang dầu. Vẽ xong, sơn khô là được, chứ không mài để ra tranh. Cho nên mặt sơn có dầu thường bóng loáng, gợn nét vẽ, không phẳng nhẵn, mịn màng như sơn mài về sau.
Có lần anh Trần Văn Cẩn vẽ hình con phượng bằng sơn then, rồi phủ sơn son lên hình phượng, phủ bằng sơn không có dầu mà có nhựa thông khi sơn khô bác Thành đem mài, hình phượng rõ ra, mặt tranh nhẵn phẳng. Sự tìm tòi ra cách làm này mở đầu cho kỹ thuật mài sơn, khiến người giáo sư Pháp (tức Joseph Inguimberty ) khi xem quá mừng rỡ, đem đập vỡ hết các chai đựng dầu pha sơn. Ông ta cho rằng đó là một khám phá quan trọng đối với nghề sơn.
Căn cứ vào cách làm mới như trên, các sinh viên mỹ thuật hồi đó bổ sung thêm cho kỹ thuật, như gắn vỏ trứng, đắp sơn nổi, hoặc chế ra cát bạc, cát vàng rắc chìm trong làn sơn còn ướt, cốt tạo ra thêm hòa sắc và các sắc độ khác nhau.
Không phải là việc giản đơn, sự xuất hiện một sáng kiến vốn có quá trình tìm tòi công phu. Từ thượng cổ chưa hề đem nhựa thông thay dầu trong sơn cánh gián, nhựa chỉ có trong sơn then. Sáng kiến đó đem lại một tác dụng rất tốt đẹp góp phần làm phong phú nền nghệ thuật của dân tộc sau này.
Bác Thành nhớ khá rõ, về các tác phẩm sơn không mài và có mài vào những năm 1932-1937 của các sinh viên vẽ sơn ta ngày trước: ông Nguyễn Đăng Bốn (đúng ra là Vũ Đăng Bốn) vẽ sơn ta không mài trên bình phong, cảnh chùa Láng; ông Phạm Hữu Khánh vẽ sơn mài trên bình phong, cảnh đồng ruộng; ông Trần Quang Trân vẽ sơn mài trên bình phong một cảnh thôn Kim Liên có bụi tre bóng nước…, các ông Trần Văn Cẩn, Nguyễn Khang vẽ sơn mài trên các bình phong, cảnh ông nghè vinh quy,v.v.
Sơn mài Việt Nam ra mắt ở nước ngoài đầu tiên là tại hội chợ đấu xảo quốc tế ở Ba-Lê (Paris), thủ đô nước Pháp, vào năm 1937. Chính bác Thành là người có mặt tại hội chợ lớn này.
“Lúc đó bác phó sơn Đinh Văn Thành, còn gọi là phó Thiềng, mặc áo the thâm, đội khăn gỗ, đi giày Gia Định. Con người cũ kỹ, chất phác như bác đã có những giờ phút bay bướm trổ tài thao diễn nghề sơn trước công chúng đến thăm hội chợ. Người dân Pháp thời ấy chỉ có thể hiểu việc đó là một thứ công nghệ ở một xứ thuộc địa xa xôi…”
Sự ra đời của chất liệu sơn mài đã diễn ra quả đúng như vậy, nhưng dưới đây là qua lời kể của họa sĩ Trần Văn Cẩn (1910 – 1994), Triều Dương ghi:
“…Người Pháp, với sự thính nhạy, nên ngay khi mở Trường Mỹ thuật Đông Dương đã chủ trương mở khoa sơn, dạy cho sinh viên nghề làm đồ sơn mỹ nghệ.Bác phó Thành, một người nắm được rất nhiều kỹ thuật nghề sơn được mời về trường. Lê Phổ, Phạm Hậu, Nguyễn Khang, Trần Quang Trân là những sinh viên đầu tiên trong nhóm nghiên cứu sơn ta. Cho dù có thay đổi lối vẽ, cách vẽ, bút pháp đắp nổi, khắc chìm, chuyển từ làm hộp, khay, hoành phi sang phong cảnh, nhưng mọi sự tìm tòi này vẫn chưa thể thoát ly lối trang trí mỹ nghệ và kỹ thuật làm sơn thì vẫn rút từ bác phó Thành.
Hồi đó Trần Văn Cẩn đang tập nghề sơn, mà bài làm đầu tiên là chiếc hộp chữ nhật rồi tới một tấm trang trí có họa tiết chép được từ một cỗ kiệu ở đền Lý Bát Đế. Ông thắc mắc với bác phó Thành tại sao sơn then và chỉ có sơn then mới mài được mà sơn đỏ thì vẫn cứ phải để nguyên. Người thợ già tìm mọi lời giải thích để khẳng định đó là chuyện của người trước để lại, làm khác đi sẽ hỏng. Nhưng Trần Văn Cẩn đã thuyết phục được bác Thành thử pha trộn sơn khác lối vẫn làm từ xưa. Hai người hì hục mà phải làm giấu giáo sư (tức Joseph Inguimberty). Hai lần thử không kết quả, đến lần thứ ba, mới thành công. Với cách pha chế mới này (sơn pha nhựa thông), ông đã có thể vẽ nhiều lớp chồng lên nhau, và mài đều tất cả mặt tranh, cả đỏ, cả đen đều được. Từ đó một số anh em khác như được khích lệ bởi kết quả của Trần Văn Cẩn, đã tìm thêm màu và thuật ngữ sơn mài ra đời…”
KỸ THUẬT SƠN MÀI:
Nghề sơn mài ở đất Bình Dương xưa ra đời trong điều kiện lịch sử có nhiều lớp nghệ nhân từ miền Bắc, miền Trung vào miền Đông Nam Bộ để khai hoang lập ấp. Họ đã tận dụng nguồn gỗ vô cùng phong phú của vùng đất mới kết hợp với kỹ thuật truyền thống của cha ông để tạo ra nhiều sản phẩm gia dụng, nhiều tác phẩm mỹ thuật trang trí phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt, nhu cầu thẩm mỹ của cộng đồng. Có thể nói Bình Dương – Thủ Dầu Một là vùng đất lâu đời với nhiều điều kiện ưu đãi của thiên nhiên để phát triển các nghề truyền thống, và đặc biệt vùng đất duy nhất này ở phía Nam (và cả nước) chứa đựng đầy đủ 3 loại hình của sơn mài truyền thống đó là: sơn mài trang trí, sơn mài ứng dụng và tranh sơn mài trong một không gian thống nhất nhưng lại rất riêng biệt về ngôn ngữ tạo hình và nghệ thuật thể hiện thông qua các đặc điểm nghệ thuật và kỹ thuật mà các nghệ nhân, họa sĩ đã khéo kết hợp giữa truyền thống và cách tân, giữa các vùng và địa phương để tạo nên một địa danh nghệ thuật, một thương hiệu nổi tiếng: Sơn mài Bình Dương.Không phải ngẫu nhiên, sản phẩm sơn mài của Bình Dương lại nổi tiếng, được khách hàng trong và ngoài nước ưa chuộng. Để sản xuất ra một sản phẩm hoàn chỉnh, từ gỗ nguyên liệu đến khâu cuối cùng phải qua quá trình với 25 công đoạn. Công việc của mỗi công đoạn đòi hỏi phải có kỹ thuật riêng, vừa tỉ mỉ lại vừa công phu. Có công đoạn làm đi làm lại tới 6 lần mới đạt yêu cầu như công đoạn hom, sơn lót…
Quá trình thực hiện:
Quá trình thực hiện một sản phẩm sơn mài ứng dụng của Bình Dương rất phức tạp, công phu, trong đó, để bảo đảm độ phẳng, bóng láng nghệ thuật, người thợ phải gia công rất kỹ lưỡng các công đoạn, trung bình mỗi sản phẩm phải mất từ 3 tới 6 tháng mới đảm bảo yêu cầu chất lượng. Và trong quá trình thực hiện hệ thống quy trình đó, trải qua nhiều thời kỳ, những bí quyết nghề nghiệp được truyền thụ cho nhau trong từng gia đình, dòng họ, địa phương, chính nhờ vậy sản phẩm sơn mài mới đạt được giá trị nghệ thuật cao và độc đáo so với các sản phẩm sơn mài ứng dụng ở những nơi khác. Kỹ thuật sơn mài ứng dụng của Bình Dương vẫn giữ được nét đẹp truyền thống, đậm đà tính cách á Đông.
Để một sản phẩm có giá trị và đảm bảo được độ bền, quy trình thực hiện cốt vóc là yếu tố khá quan trọng. Các họa sĩ, nghệ nhân ở Bình Dương đã tuân thủ nghiêm ngặt các bước thực hiện cốt vóc như sau:l. Mài nhám gỗ, lót sơn sống hom sớ gỗ, làm phẳng mặt gỗ trước khi bọc vải.2. Bọc vải lót sơn mặt gỗ: Dùng vải tám bọc sát và sơn lót lên mặt vải một lớp sơn nữa. Bọc vải nhằm giúp cho sản phẩm không bị co rút, méo mó hoặc bị nứt.
3. Hom chu: hom chu 3 lần để tăng tính bền chắc cho sản phẩm. Lần hom thứ ba, mài bằng đá, mực nang hoặc giấy nhám cho phẳng.4. Lót và mài lót: Tiếp tục lót 3 lớp sơn sống, ủ khô, để tăng độ bền chắc của sản phẩm, cuối cùng mài lớp sơn tùy theo màu nền của đề tài.
Cách thể hiện:
Đến nay, qua khảo sát thực tế, kỹ thuật sơn mài Bình Dương bao gồm 7 hình thức thể hiện sau đây:l . Vẽ màu vàng bạc:a. Dát vàng làm nền: Sau khi sản phẩm được chuẩn bị xong phần cốt vóc, mài quang phẳng mịn xong đến giai đoạn tra sơn phủ hoặc sơn cẩm sách lên họa tiết thật mỏng, đem ủ cho ráo mặt sau đó dùng vàng hay bạc dán lên sản phẩm, là đến giai đoạn vẽ hoạ tiết lên.
b. Dát vàng trên họa tiết: Sản phẩm đã được chuẩn bị phần cốt vóc, mài quang phẳng mịn, đánh bóng xong thì đến giai đoạn tra sơn phủ hoặc sơn cẩm sách (còn gọi là cẩm sắc) lên họa tiết thật mỏng, đem ủ cho ráo mặt sau đó dùng vàng hay bạc dát lên họa tiết, ủ khô vẽ chi tiết lên hoạ tiết .
2. Vẽ phủ (còn gọi là Vẽ phủ mỏng):
Dùng lớp sơn trong phủ lên để hình ảnh và màu sắc chìm dưới lớp sơn này. Tạo cho tranh cảm giác ẩn hiện, thường được áp dụng trong những đề tài như cá vàng, chim trĩ, hoa điểu.3. Vẽ lặn :a. Vẽ lặn mỏng: Sau khi lót, mài lót là in mẫu và vẽ hoạ tiết lên thật mỏng và đều, sau đó phủ lớp sơn cánh dán hoặc đánh lên một lớp verni.b. Vẽ lặn phức tạp: là hình thức gồm nhiều chất liệu như vỏ trứng, ốc, vàng lá, bạc lá, cách thực hiện gồm nhiều giai đoạn: in mẫu, cẩn trứng, cẩn ốc, vẽ màu, theo các bước sau:– Đặt mẫu vẽ lên sản phẩm.– Đặt giấy can có rắc bột phấn vào giữa.
– Dùng bút chì cứng hoặc vật nhọn để đồ theo mẫu vẽ, vẽ nét phấn lại bằng cọ, chạm sơn đen, xong đem ủ khô. Phần nào cẩn trứng, cẩn ốc thì dùng dao cắt khoét xuống cẩn ốc, để khi vẽ lên tranh được bằng phẳng. ủ khô dùng sơn hoặc màu lót lên phần ốc và trứng rồi mài cho bằng phẳng, kế đến vẽ màu, tạo chất liệu vàng bạc cho bức tranh và làm phông. Sau khi hoàn chỉnh đem ủ khô, phủ mài đánh bóng. Cách thể hiện này có khác với cách thể hiện nhiều lớp màu theo từng mảng của truyền thống nhưng vẫn đạt hiệu quả trong suốt của chất liệu do vẽ bằng sơn ta và đáp ứng được thời gian thực hiện nhanh, mặt tranh luôn phẳng bóng có thể áp dụng trên nhiều loại sản phẩm như án gió, xa lông, bình soa, liễn thờ…Mài: Dùng giấy nhám mịn mài đều, nhẹ tay, lúc mài phải luôn có nước, xoa đều cho đến khi tranh phẳng và đúng theo mẫu, đây là công đoạn quan trọng quyết định giá trị sản phẩm.
Đánh bóng: Đầu tiên dùng bột than, bột chu gói trong túi vải thưa, chà sát đều sản phẩm, sau đó dùng lòng bàn tay chà sát thật mạnh cho đến khi mặt phẳng hơi nóng, cuối cùng lau dầu bóng.
4. Cẩn ốc: Không phải là khâu chính trực tiếp tạo ra sản phẩm, tuy nhiên cẩn ốc cũng giúp cho sản phẩm có giá trị cao về mặt nghệ thuật mỹ thuật. Thợ khảm dùng nguyên liệu là gỗ (thường là loại tốt), sơn ta (dùng để gắn) và vỏ trai, vỏ ốc để tạo ra những sản phẩm, những mặt hàng cao cấp về thủ công mỹ nghệ. Người thợ khảm tiến hành nhiều công đoạn như: vẽ mẫu, mài, cưa, chạm, hạ mặt, mài dũa, đánh bóng vỏ ốc, trai. a. Cẩn chìm: Trước đây, theo lối truyền thống ở Hà Nội thì cẩn sau giai đoạn mài lót, dùng dao khoét sâu chỗ cẩn phủ sơn sống để giữ dính xà cừ đặt vào, lót thêm hai hoặc ba lớp sơn để phủ kín chỗ hở. Sau này, nghệ nhân Bình Dương nghiên cứu cẩn ốc vào sau giai đoạn mài hom, và tiếp tục hom cho bằng mặt ốc, dùng nhám và nang mực mài cho mặt ốc hơi cao hơn mặt sơn hom một ít, sau đó dùng sơn lót lên mài cho bằng phẳng quang hoặc phủ là xong. Như vậy sẽ giảm được nhiều công đoạn và tiết kiệm công và vật tư.
b. Cẩn nổi: Cẩn lên trên lớp sơn hom đã mài phẳng, sau đó lót tiếp vài nước sơn sống cho bằng mặt với xà cừ, ủ khô, mài phẳng. Sản phẩm khi hoàn chỉnh mặt ốc cao hơn mặt tranh. Thể loại này thực hiện nhanh ít tốn công và vật tư.
5. Cẩn vỏ trứng: Dùng vỏ trứng kết hợp với kỹ thuật sơn mài truyền thống (sơn ta), nhưng khác ở chỗ vỏ trứng trên nền sơn phẳng không chỉ tạo mảng màu trắng mà có thể cẩn riêng thành một thể loại hay đề tài như chân dung, phong cảnh, cảnh sinh hoạt, lao động v.v… Cẩn vỏ trứng có nhiều kỹ thuật: cẩn úp, cẩn ngửa, trứng rây với nhiều sắc độ bằng cách chuyển đậm nhạt hoặc nướng vỏ trứng trước khi cẩn, hay tạo nhiều mảng vỏ trứng lớn nhỏ khác nhau. Vỏ trứng còn kết hợp với vẽ màu tạo ra nhiều hiệu ứng quý. Các cơ sở sơn mài ứng dụng Bình Dương đã thực hiện nhiều sản phẩm lớn như đĩa tròn đường kính 1,5m, bình cao 2,4m cẩn vỏ trứng với đề tài phong cảnh, hoa văn trang trí… Cách cẩn mới của các họa sĩ là vỏ trứng được phủ hầu như toàn bộ sản phẩm, không thành mảng tách bạch, mà nó vừa lấn át một cách kín đáo trên bề mặt rộng, vừa ẩn sâu trong mọi vật, đem lại những hiệu quả bất ngờ.
6. Khắc trũng: Là hình thức được khách hàng yêu thích nhiều, được thực hiện trên tranh, bình, hũ, hộp. Sau khi làm bóng, can mẫu, dùng dao, đụt bén nhọn khắc trũng xuống, hoặc xủi lên họa tiết rồi tô màu. Có thể tô màu dầy lên bằng phông rồi đánh bóng sau, đề tài thường được thể hiện là hoa điểu, phong cảnh, đền chùa…
7. Đắp nổi: Sau khi làm bóng, dùng chu trộn sơn thành chất dẻo để đắp nổi lên. Hoặc đắp nổi lên tranh sau đó mài phẳng là đến giai đoạn làm phông, quang, mài phẳng và vẽ.
Pha chế sơn:
Yếu tố kỹ thuật trước hết phải kể đến khâu pha chế nhựa sơn. Để có được một kỹ thuật độc đáo, nghệ nhân và họa sĩ Bình Dương đã không ngừng tìm tòi sáng tạo ra một phương pháp, một cách thức thể hiện riêng để phục vụ cho các thể loại, sản phẩm mỹ thuật ứng dụng. Kỹ thuật thể hiện phong phú qua nhiều thể loại, việc pha chế sơn cũng đòi hỏi có những kỹ thuật khác nhau, mỗi thể loại cần một cách pha chế riêng. Ví dụ như khắc trũng là loại tranh phần lớn được quang bóng xong mới khắc xuống nên lớp sơn phía dưới phải dẻo, bền chắc, không dòn và có độ dày đều nhau, do đó, khi pha chế sơn Phú Thọ các nghệ nhân và họa sĩ Bình Dương đã pha trộn thêm sơn Nam Vang có tính dẻo vào để khi khắc xuống không bị bể, nứt hoặc hư nét. Sơn dùng phủ cá vàng khi pha chế phải trong, bóng, có như vậy khi mài ra mới thấy rõ từng vảy cá ẩn hiện dưới làn nước. Sơn quang đen, quang son, cần độ dẻo, sơn tỏa khi quang không bị trằn, quánh đặc, không đều. Nhiều sản phẩm quá lớn lại tranh thủ làm ban đêm cho nên các nghệ nhân tìm cách làm cho sơn chín và tỏa để có thể quang cả ban đêm. Với kỹ thuật quang sản phẩm tủ, án gió lớn phải là thợ có tay nghề cao vì yêu cầu ra sơn phải thật đều, nhanh tay, mặt sơn phải thật đều và tỏa, yêu cầu không bụi, không sọc thép, không dày hoặc mỏng, có như thế khi mài quang mới đạt, nếu có sơ xuất thì phải phủ lại toàn bộ. Ở phía Bắc thế mạnh là những sản phẩm nhỏ, yêu cầu về số lượng, phần lớn tranh thủ thời gian nông nhàn nên tiến độ thi công rỗi rãi hơn. Pha chế bằng sơn Phú Thọ, độ trong nhiều và sơn mau khô hơn. Sơn Bình Dương pha chế thường có thêm sơn Nam Vang nên sơn thêm độ dẻo và ấm (nâu đậm) hơn. Cách pha chế của mỗi miền và nghệ nhân đều khác nhau, nhưng mỗi cách pha chế có ưu điểm riêng nhằm đạt đến hiệu quả tốt nhất. Khi thực hiện phải tính toán chu đáo từng lớp để tiết kiệm thời gian và vật tư mà sản phẩm vẫn đẹp. So với những sáng tác tạo hình của các họa sĩ Hà Nội thì cách thực hiện của sơn mài Bình Dương đơn giản hơn, chất liệu và phương pháp tạo hình mang tính ước lệ, thực tế và mang tính ứng dụng. Nên việc thực hiện thuận lợi và nhanh. Từ đó có thể giải quyết được số lượng lớn sản phẩm cho nhu cầu khách hàng. Trong nghề sơn cổ truyền hay hiện đại, kỹ thuật pha chế sơn đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Sơn là nguyên liệu chính và cũng là yếu tố hàng đầu quyết định chất lượng sản phẩm. Bằng phương pháp sản xuất hiện đại, sử dụng sơn keo hóa học kết hợp với sơn ta, một số nghệ nhân, họa sĩ trẻ Bình Dương vẫn đang tìm tòi thể nghiệm để tiếp tục tạo ra các sản phẩm mới có chất lượng dựa trên kỹ thuật sơn mài truyền thống. Điều này cũng là tất yếu trong cơ chế kinh tế thị trường, của cạnh tranh khốc liệt mà Bình Dương là một trong những địa phương đi đầu trong cả nước. Chúng ta chấp nhận thực tế sinh động này như là yếu tố ngoại sinh mà PGS – TS Nguyễn Tri Nguyên đã viết: “Di sản văn hóa mà cốt lõi của nó là truyền thống văn hóa, đóng một vai trò rất quan trọng với tư cách là nguồn lực nội sinh cho quá trình tiếp biến văn hóa. Trên con đường hiện đại hóa văn hóa, xã hội và con người, một sự phát triển nội sinh của văn hóa dân tộc, – xuất phát từ những nhu cầu và điều kiện bên trong, có vai trò động lực. Truyền thống văn hóa dân tộc đã chuẩn bị cho văn hóa phát triển theo hướng hiện đại. Chỉ với một sự phát triển như thế mới có thể vừa đổi mới, vừa giữ gìn bản sắc dân tộc của văn hóa. Trong sự phát triển đó, yếu tố giá trị được gia tăng” (“Văn hóa – tiếp cận lý luận và thực tiễn”, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội 2006, tr. 235).
Tóm lại, có thể khẳng định yếu tố kỹ thuật đã tạo nên nét độc đáo của sơn mài ứng dụng Bình Dương qua việc tiếp thu kỹ thuật sơn mài truyền thống. Với lịch sử phát triển hàng mấy trăm năm, nghề sơn mài ở đất Bình Dương đã trở thành vốn quý về mỹ thuật, thể hiện bản sắc văn hóa của địa phương. Nó kế thừa nghề sơn truyền thống của dân tộc, phát huy đến đỉnh cao chất liệu truyền thống và nghệ thuật thể hiện, tiếp cận với các xu thế mỹ thuật hiện đại. Nghề sơn mài Bình Dương đã tồn tại và truyền từ đời này qua đời khác bằng bàn tay, khối óc và tâm huyết của biết bao thế hệ, nó đã để lại dấu ấn trong đời sống qua biết bao sản phẩm, góp phần vào di sản truyền thống mỹ thuật Việt Nam.
Kỹ thuật mới:
Ngày nay, trong điều kiện mới, cuộc sống, con người và nghề nghiệp, ở lĩnh vực nào cũng có thể có cơ hội đồng thời có thách thức mất còn. Trong làn sóng công nghiệp hóa của xã hội hiện đại với kiểu sản xuất hàng loạt, tiêu dùng ồ ạt, một số người làm sơn mài theo kiểu “hàng chợ”, khiến cho nhiều sản phẩm không còn giữ được vẻ đẹp của sơn mài truyền thống. Người ta chạy theo thị hiếu khách hàng với sự hào nhoáng của nhiều loại chất liệu “phi sơn ta” dẫn đến tình trạng sơn mài giả hiệu, kém phẩm chất đầy rẫy ở các cửa hàng, nhà sách, khu du lịch. Cũng bắt đầu có dư luận chê cái kỹ thuật theo truyền thống là cổ hủ và một loạt sản phẩm, tranh sơn mài phủ bạc dập các màu xanh đỏ rồi phủ lên một lượt sơn bóng Nhật Bản đã xuất hiện làm cho vàng thau lẫn lộn. Nghề sơn mài truyền thống đã dần bị mai một.
Một số họa sĩ trẻ và nghệ nhân đã đóng góp đáng kể cho sơn mài ứng dụng Bình Dương trong thập niên 90 bằng sự ra đời một dòng sản phẩm mỹ nghệ theo kỹ thuật mới. Dầu vậy, so với danh tiếng sơn mài Thanh Lễ hay Trần Hà những năm 60 về chất lượng không thể bằng được. Sơn mài ứng dụng Bình Dương cũng còn nhiều hạn chế cần được khắc phục. Do đó, việc nghiên cứu, tìm hiểu về kỹ thuật sơn mài ứng dụng của Bình Dương làm cơ sở nhận thức để các họa sĩ (nhất là các họa sĩ trẻ), các nghệ nhân hãy cùng góp phần khôi phục, bảo tồn và phát triển nghề sơn mài Bình Dương trong tương lai.
TRANH SƠN MÀI HIỆN ĐẠI
Nghệ thuật sơn mài Việt Nam gần một thế kỷ đồng hành cùng các họa sĩ tâm huyết luôn tìm tòi, nghiên cứu làm giàu đẹp thêm tiềm năng lớn lao của chất liệu tạo hình độc đáo này. Từ một chất liệu trang trí cổ truyền họ đã góp công chuyển thành chất liệu nghệ thuật. Tính truyền thống ấy càng đậm đà hơn qua bàn tay điêu luyện và yêu nghề của các nghệ sĩ nhiều thế hệ đã biết tiếp thu tinh hoa nghệ thuật thế giới và dân tộc làm phong phú thêm ngôn ngữ của nghệ thuật sơn mài Việt Nam hiện đại.
Từ thực tế sáng tác phong phú, đa dạng của thời kỳ có quá nhiều khúc xạ trong nghệ thuật hiện nay, một điều chúng ta nhận thấy là: Nếu như trước đây các họa sĩ trẻ trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương đã học tập và sử dụng kỹ thuật tạo hình, phối cảnh, màu sắc, bố cục của hội họa châu Âu nhưng lại chuyên chở được nét đặc sắc cái hồn của phương Đông trong cách nhìn, cách cảm, cách nghĩ của mình đối với chất liệu của dân tộc, thì ngày nay, cũng với chất liệu ấy, các họa sĩ trẻ đang khoác cho nó một chiếc áo mới với đủ mọi màu sắc, xu hướng của thời đại. Đây là một tín hiệu đáng vui mừng nhưng đồng thời cũng là hồi chuông báo động về những khuynh hướng lệch lạc của một số họa sĩ chạy theo “kinh tế thị trường” đánh mất tính truyền thống của chất liệu dân tộc.
Truyền thống, theo họa sĩ – nhà lý luận phê bình Nguyễn Quân đã viết:
“Như một khái niệm quan trọng trong thời đại giao lưu và thông tin ngày nay, thật không dễ định nghĩa”. Tuy nhiên, phần ngữ nghĩa cốt lõi của nó theo suy nghĩ của ông, “truyền thống là sự lấy lại những suy nghĩ, những xúc cảm, những hành vi của một tập đoàn xã hội, của một con người hay một dân tộc. Truyền thống giúp cho con người giữ lại những thành quả của quá khứ để không phải làm lại từ đầu. Truyền thống vì thế là bậc thang để nhân loại tiến lên phía trước”. (Tạp chí Nghiên cứu Văn hóa Nghệ thuật số 4 (87), 1989 trang 16 – 20).
Thiết nghĩ, bảng màu của sơn mài truyền thống tự thân nó ít ỏi, tuy nhiên từ trước tới nay chưa có ai – kể cả các họa sĩ nổi tiếng – dám cho là mình đã khai thác hết khả năng của chất nhựa cây kỳ diệu mà tự nó đã có thể biến hóa thành hai màu chủ yếu: Cánh gián và then, rồi từ hai màu này lại có thể tạo ra vô số những sắc nhị và sắc độ khác nhau. Việc tiếp thu truyền thống trong tranh sơn mài trước hết là ở khâu chế biến nhựa sơn qua các công đoạn nghiêm ngặt, vất vả và khả năng ứng dụng chất nhựa sơn vào tác phẩm của từng nghệ sĩ như thế nào, chứ không phải vay mượn một loại sơn công nghiệp ngoại nhập khoác lên nền vóc những vật liệu mỹ nghệ rẻ rúng, không chịu được sự thử thách của mắt nhìn và thời gian.
Họa sĩ không chỉ vẽ bằng mắt và tay mà vẽ bằng cả trái tim và cái đầu nữa. Do đó, khi nói đến tính truyền thống trong tranh sơn mài không thể chỉ đề cập đến kỹ thuật chất liệu mà phải xem xét cả phong cách tạo hình và nội dung chủ đề. Đây lại chính là bản lĩnh sáng tác của họa sĩ, là khả năng biểu cảm nghệ thuật thông qua phong cách trong bố cục, trong việc xây dựng hình tượng điển hình và trong bút pháp, màu sắc diễn tả. Bởi vì, chất liệu dù có quý giá, quan trọng nhưng sẽ vô hồn nếu thiếu bàn tay của người nghệ sĩ mang đến cho nó một sức sống rung động lòng người. Vì vậy, cần có những họa sĩ tài năng, cảm nhận sâu sắc chất liệu và làm chủ kỹ thuật biểu hiện. Để có được một bố cục, một phong cách tạo hình và một chất liệu phù hợp với chủ đề tư tưởng của một tác phẩm không phải là một công việc dễ làm và trong một sớm một chiều của một người “dễ tính”… Để có được tính truyền thống đó, người nghệ sĩ phải sống, học hỏi và lao động như thế nào?!
Sau cùng, truyền thống được nhắc đến như một phương pháp nhìn nhận, chắt lọc và tái hiện cuộc sống. Cha ông ta từ bao đời nay với đức tính cần cù, trung thực, lạc quan, vị tha để chiến thắng thiên nhiên khắc nghiệt cũng như mọi quân thù xâm lược, đã hình thành nên một “cách nhìn” vô cùng thực tế, cụ thể nhưng cũng vô cùng tinh tế, lạc quan, cho nên, công chúng thưởng thức khó có thể chấp nhận xu hướng gợi cảm thông qua những tín hiệu nghệ thuật, nhất là với những gợi cảm “vô hình” hay “siêu hình” như hiện nay của một số họa sĩ.
Do đó, khả năng nắm bắt và tái hiện cuộc sống thực tế như là mạch giống nòi chảy xuyên qua bao thế hệ nghệ sĩ, như một lời động viên hun đúc: Vẽ cái gì, vẽ cho ai và vẽ như thế nào? Họa sĩ có quyền chọn một đề tài nhất quán trong sự nghiệp sáng tác cũng có thể cùng lúc vẽ nhiều đề tài phản ánh cuộc sống vận động quanh mình. Cái cần học ở truyền thống, ở các tác giả lớn là cách nhìn đời sống chứ không phải là những nét hình cụ thể trong tác phẩm. Tất cả là ở thái độ của người vẽ trước cuộc sống. Bởi vì, nghệ thuật chính là con người nghệ sĩ thông qua tác phẩm được công chúng chấp nhận. Đó chính là một yếu tố không thể thiếu của truyền thống và cũng chính là quan điểm nghệ thuật của người viết vậy.
Quy luật phát triển của nghệ thuật Việt Nam là sự thống nhất giữ truyền thống và hiện đại, giữa nhân tố bản địa và nhân tố ngoại nhập, giữa đối tượng được phản ánh với chủ thể phản ánh. Vấn đề đặt ra không phải là mới hay cũ về mặt hình thức và phương tiện biểu hiện mà ở chỗ nó đáp ứng được nhu cầu thẩm mỹ của nhân dân Việt Nam. Người viết hoàn toàn đồng ý với quan điểm này, và một vài suy nghĩ trên không nằm ngoài việc khẳng định sự thành công của nghệ thuật sơn mài Việt Nam hiện đại bên cạnh việc tiếp thu tính truyền thống đã làm nên tính độc đáo của một chất liệu dân tộc để chia sẻ cùng các anh chị tâm huyết (nhất là các họa sĩ trẻ) trong việc làm giàu đẹp thêm ngôn ngữ của nền nghệ thuật Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
NGHỀ SƠN MÀI Ở BÌNH DƯƠNG
Bình Dương, trong tiến trình phát triển mang đậm nét văn hoá thủ công truyền thống và, sơn mài là một trong những làng nghề nổi tiếng, đã tồn tại trên địa bàn hơn 300 năm. Từ lối chế tác cha truyền con nối, các lớp nghệ nhân đã dày công gửi cả tâm huyết để dần hoàn thiện tác phẩm sơn mài nghệ thuật lừng danh, với vẽ đẹp lộng lẫy và sâu sắc.
Các nghề thủ công truyền thống sơn mài, chạm khắc, đồ mộc đã có từ rất sớm và phát triển mạnh ở đất Thủ – Bình Dương, vùng được định hình và phát triển nghề chủ yếu ở thị xã Thủ Dầu Một (Chánh Nghĩa, Phú Cường, Tương Bình Hiệp, Tân An, Định Hòa (thị xã Thủ Dầu Một).
Theo tư liệu lịch sử “Gia Định Thành Thống Chí” của Trịnh Hoài Đức, thì nghề sơn mài ở Bình Dương có từ thế kỷ XVII, do di dân từ miền Trung, miền Bắc mang theo vào vùng đất mới. Sau thời gian khai khẩn đất đai, đồng áng, sinh cơ lập nghiệp, họ đã thực hiện những bức tranh sơn mài đầu tiên – chủ yếu quét sơn vẽ tranh cảnh. Những bức vẽ cây đa, bến nước, mái đình, tre làng, … được tái hiện trên tranh giúp họ vơi đi nỗi nhớ quê nhà…
Làng Sơn mài được biết đến nhiều và tiêu biểu nhất ở Bình Dương là làng sơn mài Tương Bình Hiệp ra đời vào thế kỷ XVIII. Sách Đại Nam Nhất Thống Chí có ghi: “… ở làng Thủ Dầu Một, dân chúng có nghề làm sơn theo kiểu cổ khá thịnh vượng…”. Người Bình Dương thời ấy đã sớm nhận ra lợi thế của vùng đất này và đã dần hình thành nên làng thủ công đặc sắc. Với nguồn nguyên liệu gỗ các loại, kết hợp với sơn dầu Phú Thọ – một loại nhựa có màu sắc đẹp, lạ, bóng, bền đã tạo nên lớp men đen bóng cho những tác phẩm đơn giản ban đầu mà nghệ nhân đã không ngừng hoàn thiện kỹ thuật đã đào tạo lớp kế thừa nghề cổ truyền và phát triển lâu dài trong xã hội.
Dưới thời thuộc Pháp năm 1901, thực dân Pháp cho mở trường dạy nghề Mỹ nghệ gọi là Trường Bá nghệ thực hành Thủ Dầu Một, để phục vụ công tác khai phá thuộc địa. Từ đó, nghề thủ công mỹ nghệ có thêm đội ngũ thợ lành nghề được đào tạo chính quy-đánh dấu một giai đoạn mới trong lịch sử phát triển của các nghề thủ công cổ truyền ở Bình Dương.
Đầu Thế kỷ XX, các nhóm thợ “Thủ” tập trung tại làng Tương Bình Hiệp – Phú Cường chủ yếu sản xuất các mặt hàng sơn mài và điêu khắc gỗ. Tên tuổi các thợ Xù Nhồng, Phèn, Dựa được vang danh khắp nơi cùng lớp nghệ nhân trẻ có học vấn, tốt nghiệp ở các trường mỹ thuật như Cao Đẳng Mỹ thuật Đông Dương, mỹ thuật Gia Định, Biên Hòa, Thủ Dầu Một.
Theo số liệu thống kê năm 1945, ở Bình Dương có 10 cơ sở sản xuất sơn mài, riêng làng Tương Bình Hiệp có hơn 300 hộ gia đình làm nghề, đặc biệt, xưởng sơn mài Thành Lễ thành lập 1943 là cơ sở sản xuất lớn nhất thời bấy giờ, tạo tiếng tăm trong và ngoài nước.
Đỉnh cao của sơn mài Bình Dương là ở thời điểm 1945 – 1975. Sự ra đời của xưởng sơn mài Thành Lễ, do hai nghệ nhân Trương Văn Thành và Nguyễn Văn Lễ sáng lập. Xưởng lúc bấy giờ quy tụ được nhiều nghệ nhân nổi tiếng trong vùng như Thái Văn Ngôi, Ngô Từ Sâm, Trần Văn Nam… hàng sơn mài giai đoạn này xuất khẩu sang các nước Châu Âu, có giá trị thương mại lớn. Hàng sơn mài thời này đạt đỉnh cao về số lượng với trình độ mỹ thuật và chất lượng nghệ thuật, sự đa dạng phong phú. Đó là thời vàng son nhất của ngành sơn mài. Tại Hội chợ Munich (Đức) 1964, sản phẩm được tặng huy chương vàng, Hội chợ công thương sài gòn 1974, Triển lãm kinh tế, khoa học kỹ thuật toàn quốc năm 1975 sơn mài Bình Dương được tặng huy chương vàng.
Sơn mài – sản phẩm truyền thống độc đáo
Sơn mài Bình Dương nổi tiếng được khách hàng ưa chuộng, bởi từ nguyên liệu gỗ đến khâu cuối cùng của sản phẩm phải trải qua quá trình 25 công đoạn, mỗi công đoạn đòi hỏi một nghệ thuật riêng tỉ mỉ và công phu. Một quy trình sơn mỗi sản phẩm phải mất từ 3 đến 6 tháng mới đảm bảo yêu cầu chất lưyng.
Năm 1975 đến nay, sau nhiều biến đổi, ngành sơn mài ổn định và phát triển. Sơn mài cổ điển vẫn được ưa chuộng, thêm vào đó hàng loạt các mẫu mã hiện đại, phù hợp với yêu cầu cơ chế thị hiếu mới.
Trải qua nhiều thế hệ, sơn mài trên vùng đất Bình Dương vẫn giữ được nét đẹp truyền thống, đó là sự tinh xảo, nhẹ nhàng thanh thoát, đậm đà tính cách Á đông. Ngày nay, các cơ sở tại làng sơn mài Tương Bình Hiệp có khả năng sản xuất khá đa dạng các sản phẩm sơn mài, từ những bức tranh nghệ thuật đến các loại tủ, bàn ghế… Bên cạnh các loại tranh sơn mài, còn có các sản phẩm sơn mài để sử dụng và trang trí như: bình, lọ, dĩa, vòng tay, hộp… Sản phẩm sơn mài nói chung có rất nhiều phương pháp thể hiện như: sơn mài sơn lộng, sơn mài vẽ mỏng, sơn mài khoét trũng, sơn mài đắp nổi, sơn mài cẩn trứng, sơn mài cẩn xà cừ, cẩn ốc,… sự đa dạng về sản phẩm, về sự kết hợp sơn mài với các chất liệu khác như gốm, tre,… có nhiều xưởng sản xuất, xuất khẩu hàng sơn mài như các xí nghiệp Thành Lễ, Đồng Tâm, Hùng Hương,…
Với bề dày truyền thống và lịch sử phát triển vùng đất hơn 300 năm, nghề sơn mài trên đất Bình Dương vẫn giữ vững đậm đà bản sắc dân tộc. Ngày nay, sự phát triển về khoa học công nghệ, nghề sơn mài từ sự kế thừa truyền thống kết hợp với hiện đại đã góp phần tạo nên tính đa dạng mẫu mã, phong phú về chất liệu… Sơn mài đã và đang là nguồn cảm hứng thẩm mỹ của các thế hệ nghệ nhân tài hoa, là tiếng nói nghệ thuật mang tính nhân bản cho bạn bè trong nước và thế giới hiểu thêm về bản sắc độc đáo của văn hóa dân gian Việt Nam.
Làng nghề sơn mài Tương Bình Hiệp không những là niềm tự hào của bao thế hệ nơi đây, mà còn là một nét văn hóa truyền thống đặc trưng của vùng đất đáng trân trọng. Được sự quan tâm của chính quyền địa phương, các cấp các ngành, cùng với sự đồng lòng của nghệ nhân, người thợ, doanh nghiệp yêu nghề, ngày 29 tháng 8 năm 2006, Hiệp hội Sơn mài – Điêu khắc Bình Dương được thành lập tại Quyết định số: 3838/QĐ-UBND của Ủy ban Nhân dân tỉnh Bình Dương. Hiệp hội sẽ là cầu nối quan trọng, góp phần gìn giữ và phát huy thế mạnh nghề truyền thống sơn mài ở Bình Dương.
Sơn mài Bình Dương trước nguy cơ mai một
Làng sơn mài Tương Bình Hiệp tính đến nay đã hình thành và phát triển được gần 200 năm. Vào những năm đầu Thế kỷ XX, Tương Bình Hiệp cùng với làng nghề điêu khắc gỗ Phú Thọ và làng nghề gốm sứ Chánh Nghĩa đã làm cho Thủ Dầu Một – Bình Dương nổi tiếng khắp cả nước về văn hóa truyền thống trong các sản phẩm thủ công mỹ nghệ.
Sản phẩm sơn mài Tương Bình Hiệp được làm theo phương pháp thủ công vừa tinh xảo lại vừa bền. Trải qua nhiều thăng trầm, biến đổi, làng sơn mài Tương Bình Hiệp vẫn tồn tại đến hôm nay.
Sự sáng tạo, óc thẩm mỹ của những người thợ còn mang lại sự mới lạ cho các sản phẩm. Ngoài cách làm sơn mài truyền thống khảm vỏ ốc lên gỗ thì những người thợ còn dùng những chất liệu cẩn khảm từ tre, nứa, vỏ cây với các sản phẩm bình, chậu, tranh… nhiều kích cỡ khác nhau.
Các sản phẩm cũng ngày càng phong phú, phù hợp với yêu cầu của cơ chế thị trường, đặc biệt là thị trường xuất khẩu. Cũng chính nơi đây đã sản sinh ra nhiều thế hệ nghệ nhân tài hoa, đưa sản phẩm sơn mài Tương Bình Hiệp đi nhiều nước trên thế giới như Mỹ, Pháp, Đức, Nhật Bản…
Điều đáng buồn là theo thời gian, số hộ gia đình làm nghề sơn mài ngày càng ít đi. Nếu như 5 năm về trước, toàn xã Tương Bình Hiệp có trên 400 hộ làm nghề sơn mài truyền thống thì hiện nay chỉ còn gần 100 hộ “đeo bám” nghề này.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự đi xuống của làng nghề truyền thống này. Khi có nguồn khách hàng dồi dào, nhiều cơ sở sản xuất sơn mài Tương Bình Hiệp đã thành lập doanh nghiệp để thuận tiện cho việc xuất khẩu hàng hóa, đồng thời sản xuất đại trà theo phương pháp công nghiệp. Là nghề thủ công truyền thống, nhưng lại sản xuất theo phương pháp công nghiệp cũng là một trong những nguyên nhân làm cho làng sơn mài Tương Bình Hiệp “chết” dần.
Trước đây, để làm ra một sản phẩm sơn mài thủ công, phải trải qua nhiều khâu đọan, từ việc tạo dáng gỗ đến mài nhám rồi vẽ hình, phủ sơn, đánh bóng. Hình ảnh được khắc họa lên sản phẩm sơn mài thường mang màu sắc dân gian như chim muông, hoa lá, phong cảnh thiên nhiên… với 25 thao tác.
Còn với lối sản xuất đại trà, một sản phẩm chỉ trải qua 10 thao tác. Lối sản xuất hàng loạt cũng khiến cho các nghệ nhân không kịp sáng tạo, nên hình hài bức tranh cũng không gần gũi và tinh xảo. Vì vậy, khách hàng cũng không còn ưa chuộng như xưa.
Thực tế hiện nay cho thấy, ngoài khó khăn do giá cả vật tư tăng cao, làng nghề này còn bị thiếu nhân công, đặc biệt là nhân công có tay nghề cao. Nhiều người đã bỏ nghề làm sơn mài để đi làm những công việc khác có thu nhập cao hơn. Dấu hiệu mai một làng nghề truyền thống này ở Bình Dương đang trở nên rất gần.
“Khi doanh nghiệp tính giá với đối tác nước ngoài sẽ phải tính giá thành trong cả 1 năm, do vậy khi giá vật tư đầu vào tăng lên quá thì doanh nghiệp dễ bị lỗ. Hơn nữa, bây giờ sản xuất quy mô lớn cần phải được hỗ trợ về kỹ thuật, cải tiến phương thức sản xuất sao cho hiệu quả. Nhiều khi có đơn hàng lớn doanh nghiệp vừa không có đủ công nhân và kỹ thuật nên đã không thể làm cho nhanh và đẹp dẫn đến bị phạt hợp đồng là chuyện đương nhiên”, ông Lê Bá Linh, Chủ tịch Hiệp hội Sơn mài tỉnh Bình Dương cho biết.
Làng tranh sơn mài Tương Bình Hiệp thuộc thành phố Thủ Dầu Một, là chiếc nôi của ngành sơn mài mỹ thuật Bình Dương với lịch sử gần 200 năm hình thành và phát triển. Thời hoàng kim, nơi đây có nhiều cơ sở, xí nghiệp quy mô sản xuất lớn , góp phần giải quyết việc làm cho hàng ngàn lao động và đem lại thu nhập cao cho nhiều gia đình. Tuy nhiên, những năm gần đây, do không thích ứng được với thị trường, các cơ sở sản xuất trong làng nghề dần bị thu hẹp và có nguy cơ phá sản. Trong khi đó, những biện pháp mà tỉnh Bình Dương đưa ra nhằm bảo tồn làng nghề truyền thống này không mang lại hiệu quả thiết thực.
Trước thực trạng này, để vực dậy sức sống, đem lại sự hưng thịnh cho làng nghề làm tranh sơn mài Tương Bình Hiệp, đòi hỏi sản phẩm làm ra từ làng nghề phải có thương hiệu. Vấn đề xây dựng thương hiệu đang là vấn đề cấp thiết đặt ra cho các làng nghề truyền thống ở Bình Dương.
Với các sản phẩm truyền thống, thương hiệu không chỉ phát huy giá trị kinh tế mà còn phát huy giá trị giá trị văn hóa truyền thống. Bên cạnh đó, UBND tỉnh Bình Dương cần xây dựng chiến lược cho sự phát triển của làng nghề này, từ đó có sự đầu tư đồng bộ cho các cơ sở sản xuất và đầu ra cho sản phẩm.
Ông Huỳnh Tấn Lợi, Chủ tịch xã Tương Bình Hiệp, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương cho biết: Trước sự khó khăn của nhân dân trong việc vực dậy làng nghề sơn mài, UBND xã cũng có đề nghị với UBND và các ngành cấp trên, Sở Công thương cũng như Hiệp hội sơn mài cần bàn bạc, thống nhất và có 1 chương trình cụ thể để tháo gỡ từng vấn đề khó khăn cho làng sơn mài.
Làng sơn mài Tương Bình Hiệp đang trở thành một ví dụ điển hình của làng nghề truyền thống không có sự đầu tư, không thích ứng được với thị trường trong thời kỳ hội nhập. Nếu tình trạng này kéo dài, làng nghề sơn mài Tương Bình Hiệp sẽ khó tồn tại. Thật đáng buồn khi chúng ta đang phải chứng kiến một nghề truyền thống đặc trưng của vùng đất Nam bộ dần bị mai một.
Tác giả: Kiêm Thêm